Tại hội thảo, TS Nguyễn Quốc Phương, Phó giám đốc Trung tâm thông tin Bô Công thương cho biết, kinh tế thế giới trên ranh giới suy thoái và phục hồi. Do đó 6 tháng cuối năm có 2 kịch bản CPI. Cụ thể, kịch bản 1: kinh tế thế giới suy thoái, nên giá không tăng. Như vậy kết hợp các yếu tố thuận lợi và bất lợi, dự báo CPI 6 tháng cuối năm không tăng mạnh, khoảng 3,5%. Với kịch bản 2: kinh tế thế giới phục hồi, giá hàng hóa tăng nhẹ, CPI có thể tăng, bình quân 4-4,5%.
Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế TS Nguyễn Đức Độ, 6 tháng đầu năm, có thể thấy lạm phát đã đạt đỉnh vào tháng 1, nhưng cũng giảm mạnh hơn dự báo. Số liệu mới được Tổng cục Thống kê công bố, lạm phát so với cùng kỳ vào tháng 6/2023 đã giảm về mức chỉ còn 2%. Dự báo về lạm phát cả năm, TS Độ nhận định, các yếu tố về cung tiền, lãi suất và tổng cầu không chỉ khiến lạm phát giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm nay, mà còn tiếp tục có tác động kiềm chế tốc độ tăng CPI trong 6 tháng cuối năm.
Bên cạnh đó, các nguy cơ xảy ra các cú sốc về cung như giá dầu, tỷ giá giống năm 2022 cũng không cao, thuận lợi cho việc kiềm chế lạm phát. Về giá dầu, với nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu đang gia tăng (có thể xảy ra vào cuối năm 2023 hoặc đầu năm 2024), giá dầu nhiều khả năng tiếp tục xu hướng giảm, hoặc ít nhất không tăng mạnh. Mặt khác, với việc đồng USD đang trong xu hướng giảm giá, khả năng tỷ giá USD/VND sẽ được Ngân hàng Nhà nước giữ ổn định trong biên độ +/- 1-2%. Trong vòng 1 năm qua, CPI chỉ tăng trung bình 0,17%/tháng. Với giả định tốc độ này tiếp tục được duy trì trong 6 tháng cuối năm, lạm phát so với cùng kỳ vào tháng 12/2023 được dự báo sẽ ở mức 1,7% và lạm phát trung bình cả năm 2023 sẽ ở mức 2,5%.
Tại hội thảo, đại diện Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho biết, nếu như trong nửa đầu năm nay giá cả, lạm phát thế giới ở mức cao, thì thị trường trong nước cơ bản ổn định, lạm phát đang được kiểm soát theo đúng kịch bản của Ban Chỉ đạo điều hành giá của Thủ tướng Chính phủ. Những tháng cuối năm cũng đã xuất hiện một số yếu tố rõ nét gây áp lực lên mặt bằng giá như lương cơ bản tăng 20% từ ngày 1/7/2023; giá cả hàng hóa, dịch vụ, du lịch tiếp đà phục hồi trở lại sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát; giá sách giáo khoa các bộ mới và một số mặt hàng do Nhà nước định giá thực hiện điều chỉnh sau khi đã được đánh giá tác động đến CPI.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, sự thuận lợi cho kiểm soát lạm phát trong nước đến từ giá xăng dầu thế giới dự báo vẫn tiếp tục giảm hoặc ổn định; nguồn cung các mặt hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm vẫn dồi dào trong khi sức mua cùng với chi phí vận chuyển giảm. Theo Cục Quản lý giá, lạm phát toàn cầu có thể hạ nhiệt trong năm 2023 giúp Việt Nam giảm bớt áp lực từ kênh “nhập khẩu lạm phát”, đồng thời cải thiện yếu tố tâm lý, kỳ vọng, hỗ trợ kiểm soát lạm phát năm 2023. Từ những phân tích này, Cục Quản lý giá nhận định, với tốc độ tăng CPI như 6 tháng đầu năm thì dư địa kiểm soát lạm phát đang tăng dần.
Tránh “dồn” tăng giá mặt hàng Nhà nước quản lý vào tháng cuối năm
Theo các chuyên gia, để kiểm soát lạm phát, từ nay đến cuối năm cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phối hợp chính sách tiền tệ thận trọng với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý và các chính sách khác để ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn nền kinh tế. Các bộ, ngành, địa phương cần theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng; chủ động chuẩn bị nguồn hàng, đáp ứng tiêu dùng; sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết giá bình ổn thị trường…
Ở góc độ quản lý, Cục Quản lý giá cho biết, Bộ Tài chính tiếp tục chủ động, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương quản lý, điều hành giá theo nguyên tắc thận trọng, linh hoạt và thực hiện tốt công tác tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo điều hành giá.
Đặc biệt, trong điều kiện nếu dư địa lạm phát tương đối rộng để điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý trong bối cảnh mục tiêu lạm phát năm 2023 được Quốc hội phê duyệt ở mức 4,5%, các bộ, ngành cần tận dụng thời điểm để chủ động sớm phương án điều chỉnh, tránh dồn vào các tháng cuối năm, hoặc vào cùng một thời điểm để hạn chế tác động cộng hưởng, giảm bớt áp lực công tác điều hành giá. Đồng thời, cần có phương án giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với người nghèo và những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trước những tác động từ việc điều chỉnh giá các mặt hàng thiết yếu. Bên cạnh đó, tổ chức triển khai hiệu quả và giám sát thực hiện các biện pháp kê khai giá, niêm yết giá; công khai thông tin về giá; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá…
“Trước hết các chính sách hỗ trợ DN cần thực hiện nhanh, dễ tiếp cận, phục vụ đúng đối tượng thụ hưởng. Thực hiện kích cầu tiêu dùng tăng sức mua xã hội thông qua việc giảm thuế GTGT 2%. Đồng thời, hỗ trợ DN trong việc nâng cao năng suất lao động, đưa công nghệ vào sản xuất hạ giá thành sản phẩm, phục vụ cho tiêu dùng nội địa với các mặt hàng thiết yếu cần kiểm soát chặt chẽ giá cả một cách hợp lý. Đặc biệt, các mặt hàng là đầu vào của xã hội như xăng dầu, than, điện … cần quản lý một cách chặt chẽ tránh những điều hành đột biến không có lợi cho thị trường và giá cả chung”, chuyên gia Vũ Vinh Phú góp ý.
Minh Anh – Ảnh Thanh Tùng